Macau với diện tích mặt đất chỉ khoảng 21 km2 nằm ở vùng duyên hải phía Đông – Nam Trung Hoa Đại lục. Macau được chia làm 3 khu vực chính gồm có bán đảo Áo Môn, đảo Taipa và đảo Co-lo-an.
Do chịu sự đô hộ của Bồ Đào Nha trước đây, Macau có nền văn hóa Đông - Tây pha trộn và là 1 thành phố nổi tiếng về số lượng sòng bạc tại châu Á. Macau đã trở thành "Las Vegas" châu Á chỉ trong vòng 5 năm gần đây với sự phát triển nhanh chóng của các tập đoàn khách sạn, sòng bài lớn tại Las Vegas, Hoa Kỳ như Venetian Macau, MGM Macau, Sands Macau...Đặc biệt là chuỗi khách sạn lớn với tên gọi "City of Dreams" vừa được khánh thành vào tháng 6 năm 2009 gồm 3 tập đoàn khách sạn lớn: Hard Rock, Crowd và Hyatt.
Đến với Macau, khách du lịch có thể thấy được sự phồn thịnh của 1 thành phố về đêm, rực rỡ trong ánh đèn. Macau không chỉ là nơi người ta tìm đến với vận may cờ bạc mà còn là 1 địa điểm du lịch hấp dẫn. Với phong cách kiến trúc pha trộn Đông - Tây, tại Macau, đa phần các tòa nhà chính phủ được nhận biết qua màu sơn hồng do chịu ảnh hưởng của thời đô hộ của Bồ Đào Nha.
Monaco, tên chính thức là Công quốc Monaco (tiếng Pháp: Principauté de Monaco; Monégasque: Principatu de Múnegu; tiếng Ý: Principato di Monaco; tiếng Occitan: Principat de Mónegue), là một quốc gia-thành phố có chủ quyền tại châu Âu. Monaco có ba mặt tiếp giáp với nước Pháp và mặt còn lại giáp với Địa Trung Hải và trung tâm của công quốc cách nước Ý khoảng 16 km (9,9 dặm). Diện tích của Monaco là 1,98 km² (0,76 mi²) và dân số năm 2011 là 35.986 người. Monaco là nước có GDP trên danh nghĩa cao nhất thế giới bình quân đầu người là 215.163 Đô la Mỹ và là quốc gia có mật độ dân cư cao nhất trên thế giới. Monaco cũng có tuổi thọ cao nhất thế giới với con số 90, và là nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất. Sau những lần lấn biển gần đây, tổng diện tích của Monaco là 2,05 km² (0,79 mi²).
Monaco là nơi định cư của người Phoenicia từ thời Cổ đại. Năm 1215, người Genova đến xây dựng một lâu đài kiên cố trên khu đất thuộc Monaco hiện nay. Quyền kiểm soát lãnh thổ này lại chuyển sang cho dòng họ Grimaldi năm 1297.
Monaco là xứ bảo hộ của Tây Ban Nha (1524-1641) rồi đến Pháp (1641-1793) và bị sáp nhập vào Pháp từ năm 1793 đến năm 1814, đến năm 1861 Monaco mới được độc lập khỏi Pháp . Từ năm 1865, liên minh thuế quan đã nối kết Monaco với Pháp và hiệp định cơ bản năm 1918 thừa nhận quyền đại diện ngoại giao của công quốc. Monaco gia nhập Liên Hiệp Quốc năm 1993, và vẫn duy trì hiệp định chung về thuế quan với Pháp.
Hiến pháp năm 1911 quy định Monaco là một nước quân chủ lập hiến, hoàng tử là quốc trưởng. Ban lãnh đạo gồm một thủ hiến và 4 quan chức trong hội đồng Chính phủ. Thủ hiến là một công dân Pháp do Hoàng tử chọn từ những người do Pháp giới thiệu.
Thỏa ước Versailles năm 1918 cho phép Pháp có quyền "giúp bảo vệ hạn chế".
Hoàng tử cũng chia sẻ quyền lực với Hội đồng quốc gia (Quốc hội) gồm 24 thành viên làm việc theo nhiệm kỳ 5 năm
Kinh tế Monaco chủ yếu dựa vào du lịch. Dịch vụ ngân hàng và các sòng bạc được thành lập từ năm 1862. Chính sách thuế quan ưu đãi thu hút các công ty nước ngoài. Các ngành công nghiệp gồm có: chế tạo mĩ phẩm, hóa chất, điện tử, đóng tàu, xây dựng... Monaco hoàn toàn hợp nhất thuế quan với Pháp để thu và giảm thuế mậu dịch, đồng thời tham gia vào hệ thống thị trường EU qua liên minh thuế quan với Pháp.
Dịch vụ du lịch và thu thuế từ các sòng bạc là nguồn thu nhập chủ yếu của Monaco (25% PIB). Ngành ngân hàng-tài chính phát triển mạnh và đều. Ngành công nghiệp tập trung chủ yếu vào công nghiệp nhẹ, không huỷ hoại môi trường và có hàm lượng giá trị gia tăng cao chiếm 8% nguồn thu nhập ngân sách.
Tuy chưa là thành viên chính thức của EU nhưng Monaco có quan hệ mật thiết với tổ chức này thông qua Hiệp định chung về thuế quan với Pháp. Đồng tiền của Monaco cũng là đồng euro.
Ý là quốc gia có nhiều di sản văn hóa thế giới được Unesco công nhận. Những thành phố đẹp tuyệt vời của Ý như Rome, Venice và Florence nổi tiếng khắp thế giới và thu hút nhiều du khách đến tham quan.
Ý là một bán đảo dài hình chiếc ủng, được bao quanh ở phía tây bởi Biển Tyrrhenian và phía đông bởi biển Adriatic. Nước này giáp biên giới với Pháp, Thuỵ Sĩ, Áo và Slovenia ở phía bắc. Dãy Alps hình thành nên xương sống của bán đảo này; và cũng là biên giới phía bắc. Vùng phía bắc nhiều hồ với hồ lớn nhất là Garda (143 dặm vuông; 370 km vuông); Po, con sông chính, chảy từ dãy Alps ở biên giới phía tây Ý đi xuyên qua đồng bằng Lombardy vào Biển Adriatic. Nước này cũng sở hữu nhiều hòn đảo; đảo lớn nhất là Sicilia (9.926 dặm vuông; 25.708 km vuông) và Sardinia (9.301 dặm vuông; 24.090 km vuông).
Khí hậu tại Ý khá đa dạng và có thể khác biệt khá nhiều so với hình mẫu khí hậu Địa Trung Hải và "vùng đất mặt trời", tuỳ thuộc từng địa điểm. Các vùng nội địa phía bắc Ý (Torino, Milano và Bologna) có khí hậu lục địa, trong khi những vùng ven biển Liguria và bán đảo phía nam Firenze có khí hậu Địa Trung Hải. Khí hậu các vùng ven biển của bán đảo có thể rất khác biệt so với vùng nội địa, đặc biệt vào những tháng mùa đông. Những vùng có độ cao lớn nhiệt độ lạnh, ẩm và thường có tuyết. Tại các vùng ven biển, nơi tập trung hầu hết các thành phố lớn, có kiểu khí hậu đặc trưng Địa Trung Hải với mùa đông ôn hoà và mùa hè thường nóng và khô. Thời gian và mức độ khô của mùa hè tăng dần về phía nam (so sánh các bảng của Roma, Napoli và Brindisi).
Ý đã có nhiều phong trào nghệ thuật và tri thức phát triển ra khắp Châu Âu và thế giới, gồm phong trào Phục hưng và chủ nghĩa Baroque. Có lẽ những thành tựu văn hoá lớn nhất của Ý thuộc di sản nghệ thuật của họ, với các nghệ sĩ Michelangelo, Leonardo da Vinci, Donatello, Botticelli, Fra Angelico, Tintoretto, Caravaggio, Bernini, Titian và Raffaello Sanzio.
Ý có ít tập đoàn đa quốc gia hàng thế giới so với các nền kinh tế cùng mức độ khác. Thay vào đó, sức mạnh chính của nền kinh tế nước này phần lớn dựa vào các công ty cỡ vừa và nhỏ. Một số trong các công ty đó sản xuất các sản phẩm có mức độ kỹ thuật trung bình và vì thế đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ phía Trung Quốc và các nền kinh tế Châu Á khác với giá thành nhân công rẻ hơn. Những công ty này của Ý đang đối phó với sự cạnh tranh từ các đối thủ Châu Á bằng cách tập trung vào các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao hơn, trong khi di chuyển các cơ sở chế tạo kỹ thuật thấp tới các nhà máy tại các quốc gia có giá thành nhân công rẻ. Kích thước trung bình nhỏ của các công ty Italia vẫn còn là một yếu tố hạn chế, và chính phủ đã bắt tay vào khuyến khích sự sáp nhập hay hợp nhất và cải cách các biện pháp quản lý cứng nhắc từng là vật cản cho sự phát triển của những tập đoàn lớn hơn.
Các địa điểm tham quan bạn nên ghé qua
1. Đấu trường Colosseum:
Theo truyền thuyết Roma được xây dựng trên 7 quả đồi, thành phố 2.800 năm lịch sử này chính là điểm bắt đầu của Đế quốc La Mã hùng mạnh. Ở thời kì La Mã, Roma hoàng kim được xây dựng gồm nhiều quần thể kiến trúc như quảng trường, nhà thờ, tu viện, hoàng cung, đấu trường, pháo đài và đài phun nước. Tiêu biểu là đấu trường La Mã Colosseum cổ đại. Sau hơn 2.000 năm tồn tại trải qua các cuộc hỏa hoạn và động đất, đấu trường đã được trùng tu nhưng vẫn lưu lại dấu vết của thời gian.
Quảng trường Venezia:
Nếu Hồ Gươm là cột mốc số 0 của Hà Nội, thì đây chính là điểm trung tâm nhất của Thủ đô nước Ý. Khác với một Colosseum cổ đại thâm trầm, các công trình của quảng trường Venezia phô bày hết sự lỗng lẫy của thời kì phục hưng.
Đền Patheon:
Đền được xây dựng từ hơn 2.000 năm trước, là một trong những dấu tích cổ còn sót lại của Roma cổ đại, đền Patheon là điểm đến không thể bỏ qua của du khách khi đến với Rome. Ngồi dưới băng ghế nhà thờ, thưởng thức thứ ánh sáng huyền ảo rọi xuống từ lỗ hổng trên mái vòng Patheon vào lúc chiều tà là một trải nghiệm không thể nào quên.
Tòa thánh Vantican:
Vantican - quốc gia nhỏ bé nhất thế giới. Tại Vantican, có hai công trình mà khách thăm quan không thể không xem, đó là quảng trường thánh Peter và nhà thờ thánh Pierre Roma. Hai công trình này là đứa con tinh thần của hai vị nghệ sỹ đại tài thời phục hưng: Bernini và Micheal Angelo.
Vài tips nhỏ chia sẻ cùng các bạn:
- Vào mùa hè, thời tiết Roma khá nóng, nên phần lớn bạn sẽ mặc những bộ đồ thoải mái như đi biển. Nhưng nhớ mang theo một bộ đồ thật nghiên túc, để tới thăm Vantican nhé.
- Roma có rất rất nhiều các địa điểm tham quan, nên nếu thời gian eo hẹp bạn hãy cân nhắc các địa điểm cho tối ưu nhất.
- Bạn không cần phải mua nước uống đóng chai. Người Roma vô cùng tự hào vì nguồn nước công cộng sạch sẽ của họ. Hãy mang theo vỏ chai rỗng để hứng nước uống tại các đài phun nước và máy nước công cộng trên hè phố.
Cùng chiêm ngưỡng TOP những bãi biển đẹp trong danh sách 100 bãi biển vừa được bình chọn.
Vừa qua, một chuyên trang du lịch nổi tiếng thế giới đã tung ra một khảo sát trên trang mạng xã hội Facebook để đưa ra danh sách bình chọn 100 bãi biển đẹp nhất thế giới. Hãy cùng khám phá danh sách này và tìm hiểu về những bãi biển đứng ở vị trí cao nhất.
Anse Source d'Argent, La Digue, Seychelles
La Digue là hòn đảo lớn thứ 3 thuộc quần đảo Seychelles và là một sự kết hợp tuyệt vời giữa cát trắng và cát hồng nhạt, trở thành bãi biển được chụp ảnh nhiều nhất thế giới. Bờ biển lặng sóng, là điểm đến lí tưởng cho những ai thích lặn biển ngắm san hô.
Grace Bay, Providenciales, đảo Turks và Caicos, Anh
Grace Bay nghĩa là “vịnh duyên dáng” và quả nhiên, bờ vịnh này thực sự bình yên và có vẻ đẹp dịu dàng, quyến rũ. Bên bờ biển, du khách có thể thư thái nghỉ ngơi, tắm nắng còn ra xa bờ hơn một chút, họ có thể lặn biển ngắm san hô và các loài thủy sinh khác.
Grande Anse, La Digue, Seychelles
Không dễ để tiếp cận bờ biển này vì nó nằm ở vị trí khá khuất, tuy nhiên, bất cứ ai từng tới đây cũng phải công nhận Grand Anse trên đảo La Digue là bờ biển đẹp số một với đầy đủ yếu tố như cát trắng mịn, nước trong xanh, quang cảnh xung quanh xanh mát, tươi tắn, vắng vẻ, yên tĩnh…
Không thể tưởng tượng nổi những gì đang hiện hữu ở Amsterdam một khi bạn đã đặt chân đến đây. Đó là một thành phố "thoáng" đến mức khó có một phố thị nào trên thế giới có thể sánh kịp nếu xét về mặt ăn chơi.Khu đèn đỏ - Redlight district, là địa danh nổi tiếng nhất của Amsterdam. Đây là khu phố cổ của thành phố, bao gồm Coffes shops, Café bruns và những ngôi nhà đỏ. Coffes shops là nơi buôn bán và tiêu thụ ma túy. Café bruns (brown cafés) là các quán
Thăm vườn Hoa Tuylip, uất kim hương, thủy tiên và muôn ngàn loài hoa khác, Hà Lan còn là một địa điểm du lịch hấp dẫn.
Tên "Nhật Bản" viết theo Rōmaji là Nihon theo chữ Hán (日本) hai chữ "Nhật Bản" có nghĩa là "gốc của Mặt Trời" và như thế, được hiểu là "đất nước Mặt Trời mọc".
Nhật Bản còn có các mỹ danh là "xứ sở hoa anh đào", vì cây hoa anh đào (桜 sakura) mọc trên khắp nước Nhật từ Bắc xuống Nam, những cánh hoa "thoắt nở thoắt tàn" được người Nhật yêu thích, phản ánh tinh thần nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống và chết đều quyết liệt của dân tộc họ; "đất nước hoa cúc" (xin xem: Hoa cúc và thanh kiếm, của Ruth Benedict, nhà dân tộc học người Mỹ năm 1946) vì bông hoa cúc 16 cánh giống như Mặt Trời đang tỏa chiếu là biểu tượng của hoàng gia và là quốc huy Nhật Bản hiện nay; "đất nước Mặt Trời mọc" vì Nhật Bản là quốc gia ở vùng cực đông, tổ tiên của họ là nữ thần Mặt Trời Amaterasu (天照 Thái dương thần nữ).
Vào thế kỷ thứ 4, Nhật Bản đã lấy tên nước là Yamato. Còn người Hán từ trước Công nguyên đã gọi Nhật là Oa quốc (倭国 "nước lùn"), người Nhật là Oa nhân (倭人 "người lùn"), gọi cướp biển người Nhật trên biển Đông Trung Hoa thời Minh là Oa khấu (倭寇 "giặc lùn" - Chữ oa 倭 vẫn thường bị đọc nhầm là nụy). Thời xưa, lúc người Nhật chưa có chữ viết riêng, đang dùng chữ Hán thì Yamato được viết là 倭 (oa). Về sau, người Nhật dùng hai chữ Hán 大和 (Đại Hòa)để biểu kí âm chữ Yamato, thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
Nhật Bản còn được gọi là Phù Tang (扶桑). Cây phù tang, tức một loại cây dâu. Theo truyền thuyết cổ phương Đông có cây dâu rỗng lòng gọi là Phù Tang hay Khổng Tang, là nơi thần Mặt Trời nghỉ ngơi trước khi cưỡi xe lửa du hành ngang qua bầu trời từ Đông sang Tây, do đó Phù Tang hàm nghĩa văn chương chỉ nơi Mặt Trời mọc
Năm 670, niên hiệu Hàm Hanh (670-674) thứ nhất đời vua Đường Cao Tông, Nhật Bản gửi một sứ bộ đến chúc mừng triều đình nhà Đường nhân dịp vừa bình định Triều Tiên và từ đó được đổi tên là Nhật Bản,
Phú Quốc, còn được mệnh danh là Đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam, cũng là đảo lớn nhất trong quần thể 22 đảo tại đây, nằm trong vịnh Thái Lan. Đảo Phú Quốc cùng với các đảo khác tạo thành huyện đảo Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Toàn bộ huyện đảo có tổng diện tích 589,23 km² (theo thống kê số liệu đất năm 2005), xấp xỉ diện tích đảo quốc Singapore thập niên 1960 khi chưa san lấp lấn biển. Thị trấn Dương Đông, tọa lạc ở phía tây bắc, là thủ phủ của huyện đảo. Phú Quốc nằm cách thành phố Rạch Giá 120 km và cách thị xã Hà Tiên 45 km. Năm 2006, Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang bao gồm cả huyện này được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới.
Đến thời điểm tháng 7 năm 2011, có 74 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư tại Phú Quốc, với tổng vốn đầu tư là 48.087 tỷ đồng
Vùng biển Phú Quốc có 22 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó đảo Phú Quốc lớn nhất có diện tích 567 km² (56.700 ha), dài 49 km. Địa hình thiên nhiên thoai thoải chạy từ bắc xuống nam với 99 ngọn núi đồi. Tuy nhiên, cụm đảo nhỏ của cảng An Thới bị ngăn cách hẳn với phần mũi phía nam của đảo Phú Quốc bởi một eo biển có độ sâu tới hơn 60 m.
Sau năm 1954, có khoảng 1.000 giáo dân quê quán ở Nghệ An ra đảo sinh sống, dưới sự dẫn dắt của linh mục Giuse Trần Đình Lữ. Nhà thờ An Thới được thành lập vào năm 1957 để phục vụ nhu cầu đời sống tôn giáo của các giáo dân. Những năm sau đó, nhiều linh mục và thầy giảng đã được Giám mục Giáo phận Long Xuyên sai đến để phục vụ. Hiện tại, chính xứ là Linh mục Gioan Trần Văn Trông, với sự giúp đỡ của 2 phó xứ là Linh mục Hải Đăng và Vinh Sơn Nguyễn Văn Cảnh. Số giáo dân hiện tại khoảng 2.000 người.,
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Hiện nay, thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Hà Nội là đô thị loại đặc biệt của Việt Nam.
Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor, thành phố sau đó hình thành nhờ công cuộc khai phá miền Nam của nhà Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Khi người Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam, được mệnh danh Hòn ngọc Viễn Đông hay Paris Phương Đông. Sài Gòn là thủ đô của Liên Bang Đông Dương giai đoạn 1887-1901. Năm 1954, Sài Gòn trở thành thủ đô của Việt Nam Cộng hòa và thành phố hoa lệ này trở thành một trong những đô thị quan trọng của vùng Đông Nam Á. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ năm 1975, lãnh thổ Việt Nam hoàn toàn thống nhất. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên Sài Gòn thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên vị Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm 19 quận và 5 huyện, tổng diện tích 2.095,06 km². Theo kết quả điều tra dân số chính thức vào thời điểm 0 giờ ngày 1 tháng 4 năm 2009 thì dân số thành phố là 7.162.864 người (chiếm 8,34% dân số Việt Nam), mật độ trung bình 3.419 người/km². Đến năm 2011 dân số thành phố tăng lên 7.521.138 người.[5] Tuy nhiên nếu tính những người cư trú không đăng ký thì dân số thực tế của thành phố vượt trên 10 triệu người.[6] Giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả nước.[7][8] Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường không. Vào năm 2007, thành phố đón khoảng 3 triệu khách du lịch quốc tế, tức 70% lượng khách vào Việt Nam. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vai trò quan trọng bậc nhất.
Tuy vậy, Thành phố Hồ Chí Minh đang phải đối diện với những vấn đề của một đô thị lớn có dân số tăng quá nhanh. Trong nội ô thành phố, đường sá trở nên quá tải, thường xuyên ùn tắc. Hệ thống giao thông công cộng kém hiệu quả. Môi trường thành phố cũng đang bị ô nhiễm do phương tiện giao thông, các công trường xây dựng và công nghiệp sản xuất.
Thượng Hải (chữ Hán: 上海, bính âm: Shànghǎi) là thành phố lớn nhất Trung Quốc về dân số và là nội thành thành phố lớn nhất thế giới.[5]. Thượng Hải là một trong 4 thành phố trực thuộc trung ương của nước này. Diện tích: 6.340,5 km2. Theo điều tra dân số năm 2010 của Trung Quốc, Thượng Hải có tổng dân số 23.019.148 người (trong đó nội ô là 20,6 triệu người). Năm 2010, GDP của Thượng Hải là 1.687 tỷ nhân dân tệ (tương đương 256,3 tỷ USD) với GDP đầu người đạt 76.000 nhân dân tệ (tương đương11.540 USD).[6]. Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc.
Ngày nay, Thượng Hải có hải cảng sầm uất nhất thế giới, hơn cả cảng Singapore và Rotterdam. Xuất phát là một làng chài hẻo lánh, Thượng Hải đã trở thành một thành phố quan trọng bậc nhất cho đến Thế kỷ 20, và là trung tâm văn hóa phổ thông, các mưu đồ chính trị và nơi tụ họp của giới trí thức trong thời kỳ Trung Hoa dân quốc. Thượng Hải đã từng một thời là trung tâm tài chính lớn thứ 3 thế giới, chỉ xếp sau Thành phố New York và Luân Đôn, và là trung tâm thương mại lớn nhất Viễn Đông cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Sau khi Mao Trạch Đông cầm quyền Trung Quốc kể từ năm 1949, Thượng Hải đã đi vào thời kỳ sụt giảm tốc độ phát triển do chế độ thuế má cao và do sự triệt thoát kinh tế tư bản của chính quyền mới. Nhờ sự cải cách, mở cửa theo mô hình kinh tế thị trường do Đặng Tiểu Bình khởi xướng và lãnh đạo mà đặc biệt là từ năm 1992, Thượng Hải đã có những bước bứt phá ngoạn mục về phát triển kinh tế và nhanh chóng vượt qua Thâm Quyến và Quảng Châu - một thành phố đặc khu được tự do hóa sớm nhất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để trở thành đầu tàu kinh tế Trung Quốc. Vẫn còn nhiều thách thức cho thành phố này đầu thế kỷ 21 như nạn di dân ồ ạt và sự phân hóa giàu nghèo. Tuy nhiên, bất chấp những thách thức đó, các khu nhà chọc trời và cuộc sống đô thị sôi động của Thượng Hải vẫn là biểu tượng của sự thần kỳ kinh tế Trung Quốc
Giới Thiệu Du Lịch Bắc Kinh Trung Quốc : Bắc Kinh là thủ đô của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, là trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước và là một trong những thành phố văn hóa lịch sử, một cố đô nổi tiếng thế giới. Khoảng 70 vạn năm trước đây, ở khu vực Chu Khẩu Điếm ở Bắc Kinh đã xuất hiện bầy người nguyên thủy được gọi là " Người Bắc Kinh". Trong các tài liệu được ghi chép lại thì Bắc Kinh có tên gọi sớm nhất là Kế. Đến thời Xuân Thu Chiến Quốc gọi là Yên Đô.
HãyCùng Du Lịch Anz Khám Phá Các Điểm Du Lịch Nổi Tiếng : Rừng lá đỏ ở ngoại ô Bắc Kinh,Điếu Ngư Đài,"Cung điện mùa hè" (Di Hòa Viên),Cố Cung Trung Quốc
Du lịch Malaysia – Singapore - Để đi lại trong thành phố, trước hết bạn phải có bản đồ. Món này luôn có sẵn ở bàn lễ tân khách sạn hoặc trong quầy thông tin ở một số điểm tập trung đông khách du lịch như nhà ga KL Sentral hay trung tâm tham quan lớn, được phát miễn phí như tờ rơi.
Hệ thống giao thông công cộng ở KL bao gồm tàu điện ngầm, tàu điện trên cao (monorail), xe buýt và taxi. Mình di chuyển chủ yếu bằng monorail và taxi nên chỉ nói về hai phương tiện này.
Tuyến monorail chạy dọc phần phía đông KL, nơi có ba khu vực lưu trú chính của khách du lịch là KLCC (khu trung tâm, nơi có nhiều khách sạn 5 sao và toà tháp đôi Petronas nổi tiếng), Bukit Bintang và China town. Thời gian hoạt động của monorail là từ 6h sáng đến 12h đêm, tần suất 5-10 phút một chuyến (tuỳ giờ cao điểm hay không). Giá vé từ 1-2 RM, phụ thuộc vào độ dài chặng đi. Tàu đỗ ở 11 ga, các ga cách nhau khoảng 1 km. Xuống khỏi các ga này, bạn có thể đi bộ đến phần lớn những điểm tham quan chính của thành phố. Cũng có một số điểm không gần ga monorail, bạn có thể “tăng bo” bằng taxi.
JOHOR HAHRU là thành phố lớn thứ 2 Malaysia, nằm ở phía Nam đất nước. Không chỉ là một điểm đến lí tưởng so với các thành phố khác của Malaysia, Johor Bahru còn là một trung tâm công nghiệp và thương mại quan trọng trên bán đảo này. Thành phố Johor Bahru vẫn còn giữ được vẻ quyến rũ đặc trưng của nó, với phong cách sống thoải mái, đây là một thành phố đẹp như tranh vẽ và mang những nét thôn quê.
Hãy yên tâm đến thăm Kuala Lumpur chỉ với 2 triệu cho vé máy bay, 2 triệu cho ăn ở và phần còn lại cho các chi phí khác.
Du lịch nước ngoài ngày nay đã trở nên rất đơn giản bởi các đường bay thẳng tới nhiều điểm đến nổi tiếng và giá vé ưu đãi từ các hãng hàng không. Thông tin về các điểm du lịch cũng có thể dễ dàng tìm được trên mạng hoặc từ kinh nghiệm của nhiều người. Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng cần lưu ý, đó là ngân sách. Nếu không đủ tiền thì dù chuẩn bị kỹ đến đâu, cuộc vui cũng khó trọn vẹn.
Xin đưa ra cho bạn gợi ý về gói du lịch Malaysia, một điểm đến đang thu hút nhiều khách du lịch mùa hè này, trong 3-4 ngày chỉ với 5 triệu đồng. Hiện nay, giá tour trọn gói mà các công ty du lịch đưa ra dao động từ 8 đến 12 triệu đồng, tùy vào số lượng điểm tham quan. Dù 5 triệu đồng chưa phải là số tiền thực sự an toàn nhưng là chi phí tiết kiệm nhất hiện thực hóa chuyến du lịch tới thăm tháp đôi Petronas.
Dominica là một đảo quốc trong vùng Biển Caribê. Không nên nhầm lẫn nước này với Cộng hoà Dominica, một quốc gia khác trong vùng Caribê. Trong tiếng Latin tên của quốc gia này có nghĩa là "Chủ Nhật", đó là ngày hòn đảo đượcCristoforo Colombo khám phá.
Tên chính thức là Khối thịnh vượng chung Dominica. Tên của Dominica thời tiền Colombo là Wai'tu kubuli, có nghĩa "người cô ta cao." Người thổ dân Kalinago trên hòn đảo, thường bị gọi sai thành người 'Carib', có một vùng lãnh thổ giống với vùng lãnh thổ dành riêng cho người da đỏ của Canada. Vì hòn đảo này đã trải qua một giai đoạn chiếm đóng của Pháp và năm giữa hai lãnh thổ hải ngoại của Pháp (Guadeloupe ở phía bắc và Martinique ở phía nam), nên thỉnh thoảng nó được gọi là "Dominica thuộc Pháp". Nó cũng có tên hiệu "Hòn đảo thiên nhiên của vùng Caribê" vì vẻ đẹp tự nhiên chưa bị xâm phạm.
Dominica là một trong những đảo trẻ nhất vùng Tiểu Antilles, và nó vẫn đang được thành tạo bởi hoạt động địa nhiệt của núi lửa. Đây là một hòn đảo có nhiều núi non và những khu rừng mưa, nơi sinh sống của nhiều loài thực vật, động vật và chim quý hiếm. Tại một số vùng ở bờ biển phía tây có những vùng khí hậu khô, nhưng trong sâu trong đất liền lượng mưa khá lớn. Vẹt Sisserou là loài động vật được vẽ trên quốc kỳ Dominica. Nền kinh tế Dominica phụ thuộc nhiều vào cả du lịch và nông nghiệp
Hà Nội là thủ đô của Việt Nam từ năm 1946 đến hiện nay,[2] là thành phố đứng đầu Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2[3], đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với 6.699.600 người (2011). Hiện nay, thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là đô thị loại đặc biệt của Việt Nam. Hà Nội nằm giữa[5] đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi đây đã sớm trở thành một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Năm 1010, Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của nhà Lý, quyết định xây dựng kinh đô mới ở vùng đất này với cái tên Thăng Long. Trong suốt thời kỳ của các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc, kinh thành Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc. Khi Tây Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì, kinh đô được chuyển về Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ năm 1831, dưới thời vua Minh Mạng. Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương và được người Pháp xây dựng, quy hoạch lại. Trải qua hai cuộc chiến tranh, Hà Nội là thủ đô của miền Bắc rồi nước Việt Nam thống nhất và giữ vai trò này cho tới ngày nay.
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện nay gồm 10 quận, 1 thị xã và 18 huyện ngoại thành. Hiện nay, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm kinh tế - xã hội đặc biệt quan trọng của Việt Nam. Năm 2009, sau khi mở rộng, GDP của thành phố tăng khoảng 6,67%, tổng thu ngân sách khoảng 70.054 tỷ đồng. Hà Nội cũng là một trung tâm văn hóa, giáo dục với các nhà hát, bảo tàng, các làng nghề truyền thống, những cơ quan truyền thông cấp quốc gia và các trường đại học lớn.
Việt Nam có đủ các yếu tố để phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, với tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú.
Năm 2008, Việt Nam đã đón 4,218 triệu lượt khách quốc tế, con số này năm 2009 là 3,8 triệu lượt, giảm 11% so với năm trước. Năm 2012, số khách quốc tế đến Việt Nam là 6,8 triệu lượt, khách nội địa đạt 32,5 triệu lượt.[2] Doanh thu ngành du lịch Việt Nam năm 2009 đạt từ 68.000 đến 70.000 tỷ đồng,[3] 160.000 tỷ đồng năm 2012. Du lịch đóng góp 5% vào GDP của Việt Nam
Theo dự báo của Tổng cục du lịch Việt Nam, dự kiến năm 2013 số lượng khách quốc tế đạt 7,2 triệu lượt, (tăng 5,15% so với năm 2012), phục vụ 35 triệu lượt khách nội địa (tăng 7,69% so với năm 2012); tổng thu từ khách du lịch đạt 190.000 tỷ đồng (tăng 18,75% so với năm 2012)[5] và năm 2015 ngành du lịch Việt Nam sẽ thu hút 7-8 triệu lượt khách quốc tế, 32-35 triệu khách nội địa, con số tương ứng năm 2020 là 11-12 triệu khách quốc tế; 45-48 triệu khách nội địa. Doanh thu từ du lịch dự kiến sẽ đạt 18-19 tỷ USD năm 2020.
Tuy nhiên, ngành du lịch Việt Nam từ nhiều năm nay, cũng đang bị báo động về nạn "chặt chém", bắt nạt du khách, hạ tầng cơ sở yếu kém và chất lượng dịch vụ kém, quản lý kém, tạo ấn tượng xấu với du khách.Từ hơn 20 năm phát triển du lịch, Việt Nam chỉ chú trọng khai thác thiên nhiên và thiếu định hướng chiến lược phát triển, đầu tư một cách bài bản cho du lịch, và kém xa các nước khác trong khu vực. Và vẫn chưa có được một sân khấu, nhà hát biểu diễn nghệ thuật dân tộc nào đủ tầm mức để giới thiệu đến du khách quốc tế, để đa dạng hóa sản phẩm du lịch
Du lịch ngày càng có vai trò quan trọng tại Việt Nam. Đối với khách du lịch ba-lô, những người du lịch khám phá văn hóa và thiên nhiên, bãi biển và các cựu chiến binh Mỹ và Pháp, Việt Nam đang trở thành một địa điểm du lịch mới ở Đông Nam Á.[11]
Các dự án đầu tư vào bất động sản du lịch dọc theo bờ biển hơn 3.000 km và tại và các thành phố lớn đang gia tăng nhanh chóng. Dịch vụ du lịch ngày càng đa dạng. Công ty lữ hành địa phương và quốc tế cung cấp các tour du lịch tham quan các bản làng dân tộc thiểu số, đi bộ và tour du lịch xe đạp, đi thuyền kayak và du lịch ra nước ngoài cho du khách Việt Nam, đặc biệt là gắn kết với các quốc gia láng giềng Campuchia, Lào và Thái Lan. Ngoài ra, nhờ vào việc nới lỏng các quy định về đi lại, xuất cảnh, khách du lịch nước ngoài đã có thể đi lại tự do trong nước từ năm 1997.
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang nền kinh tế dịch vụ. Hơn một phần ba của tổng sản phẩm trong nước được tạo ra bởi các dịch vụ, trong đó bao gồm khách sạn và phục vụ công nghiệp và giao thông vận tải. Nhà sản xuất và xây dựng (28 %) nông nghiệp, và thuỷ sản và khai thác mỏ
Trong khi đó, du lịch đóng góp 4,5% trong tổng sản phẩm quốc nội (thời điểm 2007). Ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào ngành du lịch. Sau các ngành công nghiệp nặng và phát triển đô thị, đầu tư nước ngoài hầu hết đã được tập trung vào du lịch, đặc biệt là trong các dự án khách sạn.
Với tiềm năng lớn, từ năm 2001, Du lịch Việt Nam đã được chính phủ quy hoạch, định hướng để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn Mặc dù "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 - 2010" có vài chỉ tiêu không đạt được từ năm 2011, "Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030" đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam phê duyệt ngày 30/12/2011 để tiếp nối. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, trong thực tiễn còn cần làm rất nhiều để ngành du lịch thật sự trở thành "mũi nhọn" và từ có "tiềm năng" trở thành có "khả năng"